CHUYẾN TÀU LY HƯƠNG

 

IV CHUYẾN TÀU LY HƯƠNG .

    Vào học lớp nhì tôi không còn lo chuyện trâu bò nữa. Nội tôi đã dắt trâu về cho mấy chú chăn thả. Tôi chi chăm chú vào chuện học hành. Hôm ấy đi học về cha mẹ tôi đi làm vắng, chỉ có đứa em nhỏ ngồi khóc nhem nhuốc ở ngoài sân. Tôi hỏi nó tại răn khóc, nó nói em đói bụng. Vào nhà lục đồ cho nó ăn nhưng tìm mai chẵng thất chi. Giổ maĩ chẵng nín, tôi đành dẫn nó xuống nội xin cơm. Khi ngang qua mả Bà Thị thấy ông Chánh xây bia cho mẹ. Tôi nghĩ: Mình khổ, em đói cũng do ông nầy. Cho em ăn xong tôi cỏng nó về nhà để đó rồi quay lại đám sắn gần mả nấp chờ cơ hội đến phá. Khi các thợ hồ về, tôi chạy đến mả bẻ một cai que viết vào tấm bia còn ướt mấy chữ:”Mả Bà Thị có ngày trời đánh”. Viết xong tôi cho đó là sự thật. Tôi tưởng tượng: Khi trời đánh xuống, Ông Chánh buồn quá bỏ làng đi hết chẵng còn ai. Ruộng đất của ông ta họ lấy mỗi người một ít, dân chúng không con ai khổ nữa. Con bé Hiền cũng có tiền mua cái áo mới mặc. Tôi lên giường nằm.

     Quả thật, đêm đó trời đen kịn mưa gió, sấm chớp ầm ầm. Những tia chớp lóe lên sáng rực cả một vùng. Sau tia chớp, nhà cửa của ông Chánh sập hết, ông bỏ làng đi thật. Ruộng đất của ông ta tôi đem chia hết cho mọi người. Riêng con bé Hiền tôi chia cho nó nhiều hơn vì nó không có mẹ. Khi đi học nó mặc cái áo mới tinh không còn giơ cái lưng cháy nắng đen sì ra nữa. Lúc nầy cũng đúng lúc học sinh cắm trại Thu thu. Mẹ tôi mua cho tôi một cái quần sọc màu xanh, áo trắng ngắn tay và cái Ca lô. Khi mặc quần áo, đội Ca lô, tôi thấy mình đẹp nhất trong bọn.

    Tôi nhớ cũng diệp Trung thu nầy năm ngói, Nhà trường tổ chức cho học sinh cắm trại và ăn mặc đồng phục quần xanh áo trắng. Tôi không có tiền mua nên đành ở nhà. Lúc học sinh đi tìm mật thư, họ tràng qua cánh đồng trước nhà tôi trắng như cò tôi úc lắm. Tôi mơ, giá như ngày nào đó mình được như người ta thì chẵng gì bằng. Không ngờ hôm nay mình lại có được cái mình muốn. Đúng là mơ ước cũng trở thành hiện thực. Mắt to nhìn tôi cười tít mắt. Ý nói: cũng nhờ tôi mà nó được như thết nầy. Ông già của cái Hiền cũng chạy tới ôm chòm lấy tôi cười te toắt nói: “Cháu mới làm dua chăng trâu mà con Hiền nhà bác đã thế nầy rồi. Nếu cháu mà làm dua thiệt thì dân chúng sướng biết mấy”. Tôi cười nói với bác:” Không có chi, không có chi”.

    Bỗng có cái gì đó động vao chân, tôi giật mình choàng dây: 

   - Cai chi rứa mẹ?

    Mẹ tôi nói:

    - Răn bửa ni ngủ đến chừ chưa dậy, trâu đói tóp cả hông rồi kìa. (mẹ tôi hói cho vui, làm gì có trâu). Tôi bung ra khỏi giường tiết thầm giất mơ đẹp vừa tuột khỏi tầm tay.

    Sáng hôm sau thợ hồ nhìn thây dòng chữ tôi viết trên bia ai cũng tái mặt. Họ báo ngay cho ông Chánh, ông Chánh phi ngựa lên xem. Nhìn thấy dòng chữ trên bia, ông ta nổi máu đùng đùng. Ông cho mời đại diện xã Lê Bảy lên chứng kiến. Bà con trong làng nghe chuyện động trời ai cũng kéo đế xem đông nghịt. Ông Chánh cho gọi mấy đứa học trò gần đó đến viết chữ cho ông xem. Đứa nào viết ông cũng lắc đầu. Đến lược tôi, tôi vừa cầm cái que lên ông ta chỉ mặt ngay:

    - Thằng nầy hôm qua viết mấy chữ đó.

      Tôi mất hồn nhìn chầm chầm vào mặt ông Chánh định cải lại, ngoại tôi nói ngay:

     - Thưa anh! Răn anh khẩn định cháu tôi viết mấy chữ đó?

      Ông Chánh cươi khanh khách:

     - Há…há…Anh không thấy sao, nó không viết sao nó run cở đó?

     Tôi cãi:

    - Thưa ông! Con không viết:

     Ông Chánh trừng mắt, thấy cặp mắt trắng bạch của ông tôi lại run hơn, nói:

    - Con thấy cặp mắt trắng bạch của ông nên con run chứ không phải con run vì con đã viêt. Không tin ông cho con viết thử ông coi.

      Ông Chánh cười ghèn:

    -Cháu của anh khá đấy. Nó đùa viêt chữ cho tôi coi nữa kia?

    - Ông không cho con viết thì ông đừng nghi cho con. Nếu ông nghi thì ông cho con viết đi.

      Tôi nói gì thì nói ông Chánh vẫn không cho. Ông biết, dễu tôi có viết đúng ổng cũng chẵng làm gì được vì tôi đang còn là một đứa trẻ. Hơn nữa, tôi có viết ông Chánh cũng không nhận ra chữ của tôi. khi biết chuyện chú tôi dặn:“ Con đừng viết đúng như chữ trên bia, con cứ viết nghuệch ngoạc chi cũng được, bỡi con còn nhỏ chẵng ai bắt bẻ chi con đâu”. Dường như ông Chánh cũng biết điều đó nên ông không cho tôi viết và cũng chẵng hoạnh hẹ gì tôi. Ông quay sang chổ đám đông nói. Ông nói trống không, không một lời chào hỏi. Ông nói:

    -Tôi biết cái xóm Bàu Sâu nầy ai cũng hận tôi. Họ bảo chúng tôi chiếm hết ruộng đất của họ. Họ đâu có biết đất đai nầy là của ông cha chúng tôi để lại. Chắc đồng bào ai cũng biết người nào họ cũng có tài sản riêng của nó. Đất ruộng nầy là tài sản của tôi, răn bà con bảo tôi cướp? ( Ông vừa nói vùa chỉ tay về phái cha tôi). Như lớp trẻ nầy đây, nó nói vói cha nó: “ Cha sợ chi cái bọn cướp đất đó mà dạ”.

    Bà con nghĩ vậy nên  mỗi khi gánh lúa nọp cho chung tôi thì tìm cách lấy bớt. Nếu lấy không được họ cũng vò bớt ngọn lấy hạt cho dịt ăn. Lúc Việt Minh tới họ ùa với chính phủ Việt Minh đập phá nhà chúng tôi. Tôi nói không  ngoa,  nhà của chúng tôi bây giờ chỉ còn trơ lại mất hòn đá tán. Có người đã phá nhà chúng tôi rồi lại còn lây cả cây gỗ dề đóng bàn ghế và làm đòn kê nong…Cái ngày mà kho lúa chúng tôi cháy, họ đến không phải để dập lửa mà lợi dụng cơ hội để xúc lúa. Việc đó há bà con tưởng tôi không biết chắc? Không đâu, tôi biết chớ, tôi còn biết rất rõ nữa đằng khác. Cho nên tôi đóng kín cổng không cho ai dô. Tôi làm như rứa mọi người cho tôi là thất đức. Vâng, cứ cho là thât đức đi…nhưng bà con biết rõ rồi. Dù cứu hay không cưu cái mất vẫn mất. Có đúng vậy không? Hi…hi…Mọi người nghe ông nói và cười hi hí ai cũng tức. Nhưng tức thì tức chẵng làm gì được vì họ đều là những tá điền.

    Nói đến đây ông Chánh rút khăn lau mặt ,tiếp:

    -Chuyện trước đây là thế. Còn bây giờ có kẻ viết vào bia mộ mẹ tôi “…Có ngày trời đánh”, thử hỏi có ai mà tha thứ được sự chống đối ra mặt nầy của dân chúng Bàu Sâu từ già đến trẻ. Bà con làm như rứa khiến cho chúng tôi hết sức bất bình. Ở đây có ngài đai diện xã Lê Bảy chứng kiến. Tôi yêu cầu ngài có biện pháp thật nghiêm để ngăn chặn sự chống đối ra mặt nầy.

     Nghe ông Chánh nói dữ dằn ,chú tôi nói với bác Trùm:         

    - Bọn mình làm cái chi ông ta cũng biết hết bác há?

    Bác Trùm cười:

     - ha…ha…Biết thì biết chứ ông ta làm được con cắt chi ta.

     Nghe bác Trùm cười to, ông Chánh chỉ cây gậy Pa ton về phía bác Trùm, nói:

   - Các anh cười tôi đấy à?

     Bác Trùm:

   - Dạ không! Tôi đang cười cho bầy chim kia mà. Không khéo vụ mùa nầy có khi mất trắng cũng nên…Không biết chim hôm nay chim đâu bay dề đông thê?

Ông Chánh nghe bác Trùm nói mà tức ấm ách. Ông ta lấy khăn lau mặt lia lịa. Ông ta định nói thêm gì đó nhưng người ta đã kéo nhau ra về.

 Sau lần đó tôi không dám đến mả Bà Thị, tôi sợ ở đó có chuyện chi xãy ra thì ông Chánh đổ tội cho tôi. Tôi chỉ lo chuyện học. Nhưng học cũng không yên. Lúc cha bệnh khi em đau, gia đình trở nên kiệt huệ. Vì từ ngày bị thương cha tôi không còn đi lại như trước. Mỗi tháng ông vào rừng chỉ được vài mươi ngày là cùng. Mẹ tôi đi cấy cả ngày cũng không đủ nuôi năm miệng ăn. Cha tôi có lúc nói một mình: “ Làm người mà cả đời kiếm không ra miếng ăn thà không có còn hơn”.

    Tháng mười năm một chín năm chín, ông Ngô Đình Diêm ra bộ luật mười điều. Trong đó có một điêu: Di dân lập ấp. ( người ta gọi luật số IO năm chín”. Đối tượng đi di dân lần nầy là những người có liên quan mật thiết với cộng sản như: Có người thân đi tập kết, cán bộ, đảng viên nằm vùng và người nghèo. Cha tôi dính cả hai đối tượng thì dẫu không muốn cũng  không được.

     Vào một ngày cha tôi đi làm về sớm, tay xách con gà, nách kẹp chai rượu. Ông vừa đi vừa ngắm nhìn tứ hướng có vẻ luyến tiếc. Tôi hỏi:

     - Nhà mình hôm nay có chuyện chi mà cha mua mấy thứ đó?

      - Cha mua dề cúng đường để di di dân.

      Nghe nói đi di dân tôi ngỡ ngà không biêt thế nào là di dân, hỏi?

      -Đi di dân là đi đâu có xa không cha?

      - Đi xa lắm con ạ, họ bảo đi dô tận Kiên Giang kia. Dô trong đó sướng lắm. Đất nhiều, lúa gạo ăn không hết. Còn tôm cá  nhiêu vô kể, không phải đói khổ như ở đây.

     - Dô trong đó con có còn đi học nữa không?

     - Cái đó cha không biết. Nếu có tường thì con đi học ai cấm.

     - Trong lúc còn đói khổ, cha mẹ thì vất vã mà nghe nói sướng tôi mừng . Khi đến lớp tôi kể lại chuyện di dân cho các bạn nghe, đứa nào cũng ức. Thấy các bạn hào hứng tôi càng rấn tới. Chuyện không tôi nói thành có và nói với tính cách huơ tay múa chân:

    - Các bạn biết không? Dô trong đó lúa gạo ăn không hết. Còn tôm cá hả, thôi thì…khỏi phải nói. Ra đồng thò tay xuống nước là bắt. Con nào cũng to bằng…( tôi giơ cái chân lên) bằng…bằng cái búp chân nầy nè. Có nhà họ bắt một ngày được cả thúng to, ăn không hết thì đổ.

    Giữa lúc còn thèm ăn nghe nói đổ là tiếc, các bạn hỏi:

     -Đổ đi đâu?

    Tôi lúng túng:

      -Ừ thì…đổ đai xuống đât đó chứ đổ đi đâu.

      Nghe tôi nói, các bạn ấy há hốc mòm ra mà nghe. Đứa nào cũng trách cha mình răn không đi di dân để cho sướng.

       Chiều ngày mười tháng mười một năm một chín năm chín, cha tôi làm thịt một con gà, nấu chén xôi đặt trong cái nia bưng ra giữa sân cúng. Cha và chú tôi đứng hai bên, nội tôi cúng. Ông vái lâm râm gì đó nghe không rõ. Cuối cùng tôi nghe được một câu: “ Con mong ơn trên phò hộ cho con cháu nhà con thượng lộ bình an”.Cúng xong, ông quay lạ ôm chòm lấy tôi khóc thướt mướt rồi cả nhà ùa lên nức nở. Nội tôi nói trong ngặn ngào: “ Con bỏ xứ ra đi lần nầy rứa là hết. Cha mẹ già ở nhà dù có chết con cũng chẵng hay. Phải chi cha mẹ có miếng đất cho làm nhà, có mãnh ruộng cho con làm ăn thì con đâu đến nỗi. Lúc nầy tôi thấy cảm động nước mắt chảy ra. Hàng xóm đến tiển chân, ai cũng đứng lặng yên lau nước mắt.  

     Khóc một lúc, cha tôi đướng lên chỉ tay vào cái nia, nói:

     -Ăn cơm đi con chuển bị đi kẻo trể.

      Thấy con gà chén xôivào lúc nầy mà trong lòng không một chút thèm khát. Tôi bưng cái nia để lên giường rồi đi.

      Chú tôi quảy hai cái giỏ tòn tăn đi trước. Cha mẹ tôi bồng hai đứa em cùng tôi đi sau.Cũng trên con đường hàng này tôi đi lại, chạy nhảy tung tăng. Hôm nay cũng trên con đường nầy tôi không còn tưng bừng rộn rả như trước. Có lẻ tôi biết, chắc ngày mai tôi không còn đi trên con đường nầy. Con đường có nhiều kỷ niệm của tuổi thơ. Mỗi lần đi qua đây tôi lại cười, cười cho cái tuổi già ngịch ngợm của ông Trùm Thặn. Tính ông vui vẻ và dể gần. Với ông cái gì ông cũng bất cần và ông thường hay trổ “Cắt”. Ngày đó cha tôi cắt cỏ bên đường gặp một con tít to(con rit), cha tôi lấy cái liềm bằm đứt làm đôi bỏ lên bờ. ông Trùm Thặn đi đến, cha tôi nói:

    -Kìa bác! Coi chừng con tít. Lúc nãy tôi bằm nó đức làm đôi bỏ trên bờ, bác dệm lên không khéo nó cắn đó.     


    Ông Trùm Thặn nhìn thấy nữa con tít nằm ngữa phơi cái bụng trắng hếu,nói:

     -Con tít đã đứt làm đôi thì cắn cái con cắt.

       Nói rồi ông giỡ cái quần ra bỏ con tít vào. Không ngờ con tít găp vật cản dính lại cắn một cái. Ông hét lên một tiếng rồi nhảy trồng đứng. Nhưng con tít đã yếu nó không nhả mà bu cứng. Ông vừa nhảy vừa giật giật cái quần  nhưng cái dât lưng quần chắc quá giật mãi cũng không đứt. Cha tôi chạy tới tuột cái quần lấy con tít ra. Khi ông Trùm lên bờ nhìn lại đám ruộng mới cấy không còn một cây mạ.

    Bây giờ đi ngang qua đoạn đường nầy tôi không cười nữa. Tôi quay nhìn lại ngôi nha của mình. Một ngôi nhà nhỏ nằn cheo veo trên đồi trọc không có một bóng người. Mấy tấm tranh treo cứ đong đưa đong đưa, như đang vẫy chào những người bỏ xứ ra đi. Ánh đèn dầu hiu hắc cứ chập chờn, chập chờn buồn tẻ. Càng nhìn càng thấy buồn.

Với mẹ tôi, ngôi nhà đó chỉ có mấy tấm tranh nhưng là niềm hạnh phúc cùa bà nên bà không muốn rời. Đi được mất bước nhìn lại bỗng bà vấp phải mô đất té xuống, không ngờ trẹo cả bàn chân. Bà vừa khóc vừa nói:

- Hay là mình đừng đi di dân nữa ông? Bao nhiêu người cũng như mình mà họ có bỏ xứ đi đâu răn mình phải làm như thấ nầy kia chứ. Trời ơi! Rồi đây bà con mình ở đâu, xóm làng, quê hương mình ở nơi nào…?

    Cha tôi bây giờ khóc thật sự. Lúc đở mẹ tôi dậy ông nói:

    - Họ nghèo mình cũng nghèo. Nhưng cái nghèo của họ cũng có lát sắn, củ khoai chống đở qua ngày. Còn cái nghèo của mình dựa dô gánh củi, gánh than của tôi thì khổ quá. Nếu mình không đi thì làm cai chi bây giờ. Mẹ mi ngó đó, ngôi nhà của mình cũng chỉ bằng cái chòi. Mấy tấm tranh treo kia liệu còn chịu đựng được bao lâu. Đời mình là nông dân sống bằng ruộng đất mà không có ruộng đất chỉ có bỏ xứ mà đi. Thôi mẹ mi cũng gạt bỏ cái gọi là chôn nhau cắt rốn của mình đi, lưu luyến để mà chi...

    Nghe cha tôi nói mẹ tôi đứng lên đi khợp khiểnh, tôi phải thay mẹ cỏng em. Một lúc sau đi đền Kiểm Lâm.

     Ở Kiểm Lâm đoàn xe Phi Lomg Tiến Lực đã chờ săn.  Đợi mọi người lên xe đủ, xe bắt đầu chạy. Lần đầu tiên ngồi trên xe tôi thấy mình bay giữa không trung. Tôi ghì chặt hai tay vào thành ghế sợ mình cũng bay ra ngoài. Đến ga Duy Xuyên trời hừng sáng, mọi người lúc nhúc lên tàu.Tàu rít lên một hồi còi, tiếng xình xịch bắt đầu gõ nhịp. Những hàng cât ruộng lúa hai bên đường lao vun vút về phía sau, bỏ lại sau lưng biết bao kỷ niệm buồn vui của thời thơ ấu.

      Những người trên tàu ai cũng mang trong mình một tâm trạng buồn vui lẩn lộn. Tâm trạng của người xa quê, xa bạn bè, người thân. Họ biết nơi chôn nhau cắt rốnlà đói nghèo nhưng liệu  lần nầy đi đến vùng đất mới cuộc sống của họ có được như họ muốn hay cũng đói nghèo như xưa.

      Nưng rồi những trăn trở chìm vào giất ngủ, tan vào tiếng xình xịch của con tàu. Lúc nầy tôi cũng thấy nhớ trường lớp, bạn bè và nhất là Mắt to. Mắt to tính khí ồn ào mà rất tốt bụng. Lúc tôi đánh vào mắt nó, nó cũng bỏ qua không nói với cha và cũng không trả thù. Khi nhổ cỏ cho trâu tôi ăn luc nào bó cỏ của nó cũng to nhất. Trước ngày tôi đi di dân, Mắt to mang đến cho tôi một con chim dột dột trống, hai cái chân vàng ươm, cái mồng đỏ tía rất đẹp. Nó dúi con chim vào tay tôi rồi chạy mất. Tôi chạy theo tim,  nó đứng trong đám sắn hai tay dụi mắt. Chắc nó khóc vì nó từ nay biết không bao giờ gặp tôi nữa.         

    Thấy con chim,  tôi nhớ có một lần đi bắt chim ở cây thị đàu đình. Người ta bảo bắt chim thì bắt cào lúc trời mưa.  Vì trời mưa chim mẹ không bay được nên bắt được cả mẹ lẫn con. Trời mưa to tôi leo lên bắt chim. Leo lên đến nơi tôi chẵng thấy chim mẹ ở đâu chỉ thấy hai con chim con cái bụng trong bóng toàn là máu. Lúc nhìn xuống tôi tái cả mặt. Ở chổ chắn ba cây có một con rắn to nằm khoanh một đống đen sì. Người tôi lạnh từ đầu đến chân và nhẹ như lông tơ. Tôi nắm chặt hai con chim trên tay, hai cánh tay ghì  vào thân cây tuột cái ào. Khi chân chạm đất, hoàn hồn lại tôi mới biết mình thoat nạn.

     Tưởng thế là xong không ngờ cái bụng tuột một miếng da to như cai bàn tay lòi thịt đỏ chành. Máu rỉ ra nhỏ từng giọt xuống tận lưng quần. Hai con chim đã mềm nhũn. Tôi lững thững đi về mà lòng buồn rũ rượi. Vừa sợ mẹ đánh vừa tiếc hai con chim.

     Hôm nay Mắt to cho con chim tôi mừng. Tôi lấy cái bịt mõm tâu bỏ vao lấy dây cột lại. Mấy ngày sau thì chim chết. Chờ tối, tôi đêm ra ngã ba đường chôn, chôn ở đây có người qua lại cho nó vui.

     Tàu chạy một đêm, một ngày thì dến ngã ba Ninh Hòa. Từ trong nhà ga có tiếng loa phóng thanh oang oang:

     -Alô! Alô! Đồng bào chú ý nghe đây! Đoàn di dân của chúng ta hôm nay không đi Kiên Giang mà đi Buôn Ma Thuột. Alô! Alô!..

     Tiếng loa vừa dứt, tiếng phản đối dội lên như sóng. Một bà chị la lên:

    -Chính phủ nói với đân mà nói cũng không thiệt lời. Ở nhà nói đi Kiên Giang dô nữa đàng thì la thuột thuột. Thuột thuột cái chi, cá trên thớt mà… muốn bằm hồi nào thì bằm.

    Thực ra người ta nhge nói đổi địa điểm là phản đối,la ó. La để có chuyện để mà la, họ không biết Kiên Giang hay Buôn Ma Thuột nơi nào có cuộc sống đở vất vã hơn.

     Phản đối cứ phản đối, sang xe vẫn sang xe. Xe bắt đầu chạy về hướng Buôn Ma thuột, tiếng phản đối vẫn còn oang oang. Khi xe leo lên đèo Dốc Cao, Phượng Hoàng thì tiếng phản đối im bặt, chỉ còn lại tiếng nôn ọe ,úa mửa của những người say sóng.

      Qua khỏi chảnh rừng núi âm u trùng điệp thì thỉnh thoảng hiện ra những cô gái dân tộc mang gùi đi trên đường ai cũng nhìn sững. Họ cho đây là vùng đất chưa từng ai đặt chân đến bao giờ. Ai cũng thở ra chán chừơng. họ nói với nhau: “Phận nghèo vẫn đeo cái khổ”. Thôi, mặt cho số phận

      Xe lùôn lách qua hết đồi nầy đến dốc kia thì đến các đồn điền Cà fê, cao su thẳng tắp hiện ra. Hơi lạnh của mùa đông Cao nguyên lại càng lạnh hơn. Chạy thêm một đoạn nữa đến các vườn cam quýt chín mọng. Lúc nầy ai nấy mới giật mình thì ra họ đã lọt vào chốn thần tiên. Ai cũng cắp miệng tầm trồ. Bởi đây là lần đầu tiên trong đời họ mới thấy được.        

    Tới thị xã Buôn Ma Thuột dừng lại. Lúc nầy trời vừa choạn tối đường phố đã lên đèn, người người qua lại tấp nập. Các tiệm vàng hiệu buôn hàng hóa treo lung lẵng, ai cũng phấn chấn. Một bà chị làn da cháy nắng, khuôn mặt đầy những nếp nhăn bỗng dưng những nếp nhăn ấy biến mất còn lại nét mặt tươi roi rói, nói: - Giá như mình được sống ở đây thì sướng biết mấy.

    Người kia chỉ tay vào các khu nhà trệt nằm liền nhau nói:

    - Nếu có ở thì mình ở khu nhà kia kìa. Khu nhà thắp thắp phù họp với bọn mình. 

     Người khác nghi ngờ.

     Người ta đông thế kia, mình ở vào đâu được. 

      Một bà chị tỏ vẻ hiểu biết nói:

      -Các chị khéo lo, nhà nước đưa mình đến đây ở thì họ đã săp xếp cả rồi. Chẵng lẻ họ cho mình ở ngoài trời.

      Nghe người ta đàm đạo lung tung  chẵng đau vào đâu,  chú tôi lên tiếng.Chú tôi là lính khố xanhcủa Pháp, ông ở từ Pháp về năm một chín năm tư. Hôm nay ông cũng đi di dân cùng với dân làng. Cái gì ông cũng biết, cũnghiểu. Trên suôt đoan đường đi ông không nói lời nào. Nói ra ông sợ người ta dèm pha  họ bảo: “ lính Phap mà cũng đi di dân”. Bây giờ nghe ngươi ta bàn tán huyên thiêng, ông lên tiếng:

    - Mình không đươc ở đây đau bà con ơi, đây là thành phố mà. Mình là nông đân họ đưa mình đến chỗ mô có đất sản xuất kia mới dược.

     Bà chị “Hiểu biêt” phan đối”

   -Anh nói răn hay? Họ người mình cũng người ở chỗ mô mà chã được.

     Chú tôi cười lẩm bẩm: Tội nghiệp cho bà con mình suốt cuộc đời chỉ biết cái cuốc, cái cày…

      Nói xong xe bắt dầu chuyễn banh ,bà chị “hiểu biêt”ngóc đầu lên.

     -Ủa, chứ còn chạy đi đâu nữa?

    Xe chạy hết đường nhựa vào đường đất, hết đường đất lại lao vào rừng. Trời Tây nguyên vào những ngày tháng nười một mưa dầm đường lầy lội. Nhiều đoạn bốn bánh xe quây tít mà chẵng nhích lên được tý nào phải nhờ mấy người đàn ông ngồi trên xe nhảy xuống đẩy xe mới qua. Mỗi lúc đẩy, đất Ba zan bắn vào người đỏ chành, nhem nhuốt. Vừa thấy cánh đó ai cũng la lên: “Dại chứng nó cho mình ở đây thì trong ba ngày chắc thịt lộn với bùn”

    Xe chạy được một đoạn thì dừng lại. Tài xế vui vẻ nói:

    - Xin mời bà con xuống xe, tới nhà mình rồi.

    Mọi người chưng hửng:

    - Ông nói cái chi, đây là nhà chúng tôi?

    - Vâng, Đây là quê hương mới của bà con.

    Tài xết vừa dứt lời, như một trận chiến . Nào đòn gán , thúng mũng, chai lọ bay ra vèo vèo: “Bịch bịch! Bịch!”

   Tài xế hét lên:

     - Trời ơi! Sao bà con lại đánh tôi? Tôi là tài xế chở bà con đi chứ đâu có phải chính phủ mà bà con đánh.

     - Tài nầy: “Bich bịch!” Xế nầy: “ Bich bịch!”

    Họ vừa đánh vừa la:

     - Mẹ kiếp tụi bây! Bọn bay lừa hả! lừa hả! Lừa thì tau cho lừa. Lừa nè, lừa nè…

    Miệng thì nói, hai tay thì quờ quạn gặp cái gì thì nếm cái đó. Ném loạn xạ không cần biến đụng đến ai. Tài xế luồng qua dầm xe chạy vào rừng. Khi tài xế chạy rồi họ ngồi lại thở dốc chẵng ai nói với ai lời nào. Giữa cá lạnh của mùa đông Tây Nguyên mà ai cũng toát cả mồ hôi. Lúc lâu sau trên xe chỉ còn lại đoàn người di dân nhem nhuốt bên đống thúng mũng, chai lọ ngỗn ngang không đáng mười quan tiền.

     Cảnh buồn bây giờ lại càng buồn. Họ ngồi im lặng và thở ra chán chường. Tôi thấy dường như trong hơi thở mang theo cả dòng nước mắt.

    Lúc lâu sau một đoàn phụ nữ mang giày ống cao đến tận đầu gối, tay rọi Pin loan loán đi tới. Mọi người gọi là Ma xơ. Các Ma xơ nói:

  `-Xin mời bà con theo tôi vào trong láng nghỉ.

    Người ta rồ lên:

     - Chúng tôi không đi đâu hết. Phải chở chúng tôi dề quê. Chúng tôi không sống giưa rừng núi nầy. Chở chúng tôi dề, chở chúng tôi dề.

     Các Ma xơ diệu giọng:

    - Chuyện ở hay đi tùy bà con. Nhưng dù có đi chăng nưa bà con phai vào láng nghỉ tạm đêm nay có gì mai hẵn tính. Không khéo đêm nay ở đây vừa đói vừa lạnh mấy đứa nhỏ chiêu không nỗi.

     Nghe nó đến mấy đứa nhỏ ai cũng thất kinh. Họ chấp nhận vào láng. Các Ma xư dẫn chúng tôi vao ba căn nhà vừa mới cất mái tranh lợp còn xanh nguyên. Mỗi căn dài chừng bảy chục mét, họ chỉ cho mỗi gia đình một khung. Một đoàn phụ nữ trẻ khác đến gọi là Nữ quân nhân, họ phat cho mỗi gia đình mung màn, chăn chiếu và mỗi người một cây bánh mì to kẹp thịt. Có một chị vừa cầm lên la to:

     -Bọn bay cho tau ăn cái thứ nầy đây hả? Rứa mà ở nhà nói ngon nói ngọt: Dô trong đó sướng lắm, cơm trắng cá tươi, muốn chi có nấy. Sướng đây, sướng cái mả cha bay…

     Ăn xong chị ấy cười bẽn lẽn:

     - Ngó rứa mà ăn cũng ngon.

    Đêm đó không ai nghĩ đến chuyện rừng thiên, nước độc nằm xuống là ngủ ngay.

     Đêm Tây Nguyên những tháng mưa dầm mùi ẩm ướt xông lên nồng nặc.Tiếng côn trùng và tiếng động vật ăn đêm kêu inh ỏi như xét màn tai nhưng dù chúng có kêu đến cở nào cũng không chống nỗi tiếng ngáy của người nông dân ba đêm liền mất ngủ.

      Sáng ra đã bảy, tám giờ man sương vẫn còn dày đặc. Qua một đêm lạnh hình như người nao cũng nắn lại. Bỡi chiêc mền phủ kín từ chân đến chóp đầu. Khi bước ra khỏi láng chung quanh họ chẵng có chi ngoài rừng bao bọc và tiếng vèo vèo của gió nghe thật não nề. Mấy ngày sau người ta ủi một con đường và một khu đất rộng để làm nhà. Và đặt tên là Quảng nhiêu 2. Ở Quảng nhiêu đất màu mỡ trồng cây gì cũng tốt. Cây cải cay của đồng bào dân tộc bán cho dân cao cả mét vậy mà ai cũng không bằng lòng. Họ bảo ở đây không có đất cấy lúa, không có ao hồ tôm cá. Họ nằn nặc đòi đi nơi khác sống sướng hơn.

      Chìu theo ý dân, ôngNgô Đình Diệm chuyển một trăm năm mươi gia đình của hai huyện: Duy xuyên và Thăng Bình đi nơi khác.

       Ra đi lần nầy chẵng ai dám đòi hỏi gì với chính phủ. Vì tất cả những gì nhà nước lo họ đã làm cả , Nhưng rồi nhà nước lại cấp thêm sáu tháng ăn nữa để tạo điêu kiện cho dân xây dựng quê hương thứ ba.

      Vậy là một lần nữa họ gồng gánh ra đi. Đi trong tâm trạng của người mất quê hương.