I. HÒN ĐÁ QUÊ HƯƠNG

 



 

  I. HÒN ĐÁ QUÊ HƯƠNG

Vào những ngày tháng cam go, loạn lạc và đói khổ nhất của năm bồn lăm  thế kỷ hai mươi tôi đước sinh ra đời. Đã trã qua gần hai phần ba thế kỷ, từ buổi ấu thơ đến lúc trưởng thành. Tôi trải qua không ít những thăng trầm giông bão của cuộc đời để mà tồn tại.

Không hiểu cuộc đời của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ra sao mà sau nầy ông lại viết lên một khúc ca khiến tôi nhớ mãi: “…Tuổi thơ ơi, tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người…”

Nói là vậy nhưng con người không phải ai sinh ra cũng đều mang cho mình một cái kiếp mà cái kiếp người ấy chỉ dành cho những  ai suốt cuộc đời mặt cháy, mày sương, tìm miếng ăn bằng mồ hôi, nước mắt thậm chí bằng máu của mình. Bỡi vậy tôi nghĩ: Tôi là một kiếp người.

Tôi sinh ra trong một gia đình mà tài sản duy nhất của cha mẹ tôi là Trời.

Ông bà ta ngày xưa thường noi: “Tôi chẵng có gì ngoài đầu đội trời chân đạp đất’’. Nói là vậy, nhưng người ta không nhiều thì ít họ cũng có đất để mà đạp. Cha mẹ tôi đầu dội trời,  chân phải mượn đất mới có để mà đạp.

Duy hòa quê tôi là một vụng quê nằm bên dòng sông Thu Bồn thơ mộng. Dòng sông ấy hàng năm chở hàng ngàn ngàn tấn phù sa bồi đắp cho quê tôi trở thành vùng đất phì nhiêu màu mỡ, quanh năm ruộng lúa tốt tươi. Át nỗi mãnh đất ấy thuộc về tay các địa chủ như: Chánh Bảy, Cửu Thương, Cửu Đồng… Còn dân làng là những tá điền, phu điền. Cha mẹ tôi ngày ấy còn trẻ trong tay không có một tất đất thì làm gì có được cái danh: “Anh tá điền để mà kêu’’.

Mẹ tôi kể rằng: Trước ngày sinh tôi, nội tôi cho cha mẹ tôi ra ở riêng. Họ làm cho một cái nhà nhỏ ở dưới gốc cây xoài cạnh Bàu Sâu. Gọi là nhà, thực ra nó cũng bằng cái chòi. Mái nhà chỉ lợp đủ vài chục tấm tranh, chung quanh trống hoắt chẵng có một tấm phên che. Mùa mưa bão gió lùa vào từng cơn lạnh giá chẵng có chốn che thân. Trong nhà chỉ để đủ cái giường và ba ông táo. Sau khi sinh tôi được ba ngày, cha tôi vào rừng than củi. Sáng bốn năm giờ quảy giỏ ra đi. Tối bảy tám giờ mới về đến nhà để lại cho mẹ tôi một đứa con còn đổ hỏn suốt ngày không có gì bỏ bụng…

Mỗi lần kể chuyện, mẹ tôi nói làu làu như đã học thuộc lòng. Có lẽ cái đói ngèo của thời thực dân, phong kiếm đã in đậm trong tim bà. Nên mỗi lần  kể chuyện, bà lại nhắc đến chuyện xưa, chuyện củ. Cái chuyện mà ai cũng biết, cũng hiểu. Các em tôi có lúc nói rằng: Nhắc lại chuyện củ làm chi? Cái thời ấy đã qua rồi. Riêng tôi càng nghe càng quý trọng ông bà ,cha mẹ mình hơn. Bỡi mỗi hạt cơm cha mẹ kiếm đươc nuôi mình khôn lớn có giọt mồ hôi, nước mắt của những năm tháng khốn cùng trong xã hội.

    Nhìn vào ánh mắt lúc bà kể chuyện, tôi biết trong ánh mắt đó chứa bao nhiêu hình ảnh hãi hùng của ngày xưa mà bà không bao giờ quên. Bà nhìn tôi:

    - Con biết không ? Mỗi lần giặc Pháp đi lùng xóm làng tan tóc, nhà cửa cháy rụi, dân chúng chạy toán loạn, tất cả những gì  của dân làng chúng vét sạch, cây kim sợi chỉ chẵng còn. Đàn bà con nít chạy dô rừng, đàn ông trai tráng núp dưới các khe suối. Có một lần Pháp phát hiện số đàn ông núp dưới khe Ba Sào, nó bảo là cộng sản nên xả súng bắn xối xả làm chết hơn ba mươi người. Trong đó có một người tên là Cùng, cái tên của ông ta cũng giống hoàn cảnh của ổng, đói khổ tột cùng. Ông ta chết đi để lại cho dợ năm đứa con nhỏ suốt ngày không biết ăn bằng cái chi.Chị ta bèn bỏ năm đứa con dô đôi gánh, gánh đi quanh xóm xin ăn. Thấy cảnh ngộ thương tâm, người ta đút cho mỗi đứa một miếng. Khi các con no, chị ta đói lủi. Có lần chị ta té bên bờ mương, mấy đứa nhỏ bò lúc nhúc khóc inh ỏi. Bây giờ người ta mới hay, họ bảo nhau: “Trời ơi! Mình quên con trâu cởi tội thiệt’’. Từ đó có câu rằng:

Súng trường giặc Pháp lăm le

Xác người trôi nỗi trên khe Ba Sào

Người chết thì chết chẵng sao

Tội cho người sống gánh vào gánh ra

    Sau nầy mỗi lần giặc đi lùng, dân làng không núp dưới khe suối mà chạy dô tận Hòn quắp, Đá dừng lánh nạn.

    Nghe nói đến Hòn quắ đá dừng, tôi hỏi mẹ:

    -Tại sao người ta gọi Hòn quắp đá dừng hả mẹ?

    Mẹ tôi lặng đi một lúc như muốn lục tìm những chuyện kể hoặc truyền thuyết nào đó về quả núi mà bà đã nghe.    Bà nói:

    - Lịch sử của nó ra sao mẹ không rõ. Mẹ chỉ nghe người ta nói rằng: Cái đỉnh của hòn núi ấy không đứng thẳng mà nghiêng dề một bên và cái đầu của nó gục xuống nên gọi là quắp. Còn đá dừng là lưng chừng giữa quả núi có một tảng đá to, người ta bảo tảng đá từ đỉnh rơi xuống rồi dừng lại ở đó nên gọi là đá dừng.

    Mỗi sớm khi nặt trời mọc, một khối mây trắng bồng bềnh che khuất tảng đá chẵng khát nào tảng đá nằm tận chân mây:

          Đá kia ở tận chân mây

          Non sông gắm vốc đấtnầy của ta.

      Khi trời quang mây tạnh, mặt trời chiếu vào tảng đá khiến tảng đá sáng rực lên dù ở xa đến tận đâu đâu cũng nhìn thấy. Nhìn thấy hòn đá là nhìn thấy quê hương. Nhưng vì không có điều kiện về thăm nên thương nhớ mà rằng:                                     

            Ngó lên hòn kẽm đá dừng

Thương cha nhớ mẹ quá chừngbớ bạn bơi (ơi)

    Không những thế mà ngày xưa cũng có ngươi đi làm ăn xa lắm đó con. Có người họ đi đến Đồng nai, Nước mặn... Tuy xa nhưng đến ngày giỗ, ngày tết họ cũng dề.Mỗi lần dề là một lần khó nên ông bà ta khuyên:

          Thương cha nhớ mẹ thì dề

Nhược bằng thương kiễng nhớ quê thì đừng

    Tôi nghĩ: Ông bà ta vì tương con cháu mà nói vậy thôi chứ đừng sao được. Quê hương mà ông Đỗ Trung Quân một nhà thơ rất nỗi tiếng ngày nay đã để lại cho đời một tình cảm quê hương không ai không nghĩ tới. Nói đến  ông là nhớ đến quê hương:

Quê hương nếu ai không nhớ

Ta không lớn nỗi thành người

    Tôi cũng là người xa quê. Hơn năm mươi năm phiêu bạc nơi đất khách quê người, tôi chẵng thiêu gì nhưng đêm nằn tôi vẫn thiếu:

Tôi thiếu nơi tôi đã sinh thành

Thiếu thiếu lời ru mẹ thiếu tình thâm

Thiếu dòng  sông diệu ru giất ngủ

Thiếu quả núi nghiêng thiếu đá dừng

    Là một người sống trong nước đã vậy huấn chi những người sống xa Tổ quôc. Hiện nay những người ấy họ có cuộc sống dư thừa. Nhưng khi nhắc đến quê hương, họ thấy mình như mất tát cả. Mất tuổi thơ của con cháu mình tung tăng trên con đường làng sau gời tan học “Em về rợp bướm vàng bay” Chính điều đó mà nhạc sĩ Pham Duy trong nhưng ngày cuối đời ông nói: “Ta về thôi, vể đi thôi…”. Ông nói như vậy chính là cái quê hương ở trong ông ngày đêm thúc giục, rồi ông cũng đươc gởi mình trên đất mẹ.

    Mới đây cha tôi cũng vậy, lúc còn khỏe ông nói: “Khi cha chết, cha muốn nằm bên ông bà nội cuả con’’. Đến giờ phút cuối tôi hỏi: “Cha bây giờ muốn nằm ở đâu?’’ Cha tôi lặng thinh. Trên mặt ông chỉ còn laị mấy giọt nước mắt. Tôi biết trong giờ phút cuối ông không mướn làm phiền con. Thật lòng mà nói, ông có muốn nói ra nguyện vọng của mình thì tôi cũng không thực hiện được vì tôi không đủ khả năng..

    Khi cha tôi còn sống, mẹ tôi ngồi lại bên các con là kể chuyện. Từ ngày cha tôi mất, mẹ tôi không cò nhanh nhặn như trước. Ngày ngày bà cứ vào ra thơ thẩn nói những chuyện tuổi thơ của tôi sống trong  gian khổ, thiếu thốn đủ bề mà vẫn hồn nhiên chưa biết gì đến chuyện lo âu phiềm muộn. Có lần bà đứng giữa sân, mắt đăm chiêu nhìn về phía xa xăm. Tôi hỏi:

    - Mẹ nhìn cái gì vậy?

    Mẹ tôi vẫn đứng yên nói:

    - Mình ở đây, quê mình nằm về phía nào con he?

    - Mẹ nhớ quê à ? Quê mình có cái gì mẹ còn nhớ không?

    - Đã gần năm mươi năm rồi xa quê, mẹ quên ngôi nhà, đường làng và người thân nhưng mẹ nhớ nhất khi người ta nhìn lên hòn đá là họ hát: Ngó lên hòn kẽm đá dừng, thương cha nhớ mẹ quá chừng bớ bạn bơi…

    Bây giờ tôi mới hiểu nỗi lòng của mẹ tôi. Đã gần trăm tuổi già, gần đất xa trời mà hình ảnh cha mẹ, quê hương vẫn còn ở mãi trong tim.         

    Lúc vào nhà bà nói:

    - Con con nhớ không? Cai ngày mà…

    Nói đến đây tôi nghe giọng bà đơ đớ như có cái gì chặn ngay ở cổ. Tôi kêu lên:

    - Mẹ!

    Không một tiếng trả lời.

    - Me!Mẹ!

    Bà ngã khụy xuống mặt tái xanh. Hốt hoãn, tôi bồng xốc bà lên tìm xe đi bệnh viện. Trên đường đi, tiến còi xe cứu thương cứ rít lên từng hồi, từng hồi như xé vào tim, bà nằm đó trên chiếc Băng ca không một tiếng động. Mọi việc xãy ra trên đời dù lành hay dữ bà không còn hay biết. Chỉ còn lại hơi thở cứ đều đều như tiếng tích tắc của đồng hồi gõ nhịp đếm thời gian.

                                    000

    Cơn nhồi máu cơ tim quoáy ác ập đến lúc nào chẵng hay. Hôm nay ngồi trực bên mẹ những hình ảnh tuổi thơ của tôi cứ hiện ra rõ mồn một như mới vừa xãy ra ngày hôm qua. Tôi nhớ mãi: “Cái ngày mà…’’ mẹ tôi nói còn dang dở. Ngày ấy tôi khoảng chừng tám, chín tuổi. Ngày ngày tôi thường chơi với bạn bè trong làng. Khi chơi, tôi thấy  bạn nào có cai gì lạ, đẹp tôi thò tay vào chúng nó không cho nói:

     -Ôi! Mầy đừng thò tay dô hư của tau. Cái nầy của cha tau cho. Cái nầy nữa cũng của cha tau đó…

     Tôi ngĩ: Sao đứa nào cũng có cha mình lạ không có ? Về nhà tôi hỏi mẹ:

    - Mẹ!cha con đâu? Con muốn cha mua đồ chơi con, con muốn ngủ với cha.

    Mẹ tôi ậm ờ:

 - Ừ thì… Con muốn gặp cha tối nay con đừng ngủ sớm.

    Nghe lời mẹ, đêm đó tôi không ngủ sớm mà ngồi chờ. Chờ mãi, chờ mãi cũng chẵng thấy cha đâu. Mẹ tôi cứ vào ra thấp thỏm. Bỗng bà chụp lấy tay tôi kéo ra sân nói:

    - Con đi lên đây với mẹ.

    Tôi chẵng biết chuyện chi nhưng vẫn đi. Hai mẹ con chạy lúp xúp lên đầu Bờ Đắp nơi mà mẹ tôi nói cha tôi thường hay đi về ngồi chờ. Đêm vắng tiếng côn trùng kêu khắp bụi bờ. Tiếng nỉ non của côn trùng khiến cho hai mẹ con buồn tẻ, lạnh lùng. Mẹ tôi hết ngó bên nầy lại ngóng bên kia, còn tôi dụi mắt ngáy ngủ. Gất ngủ của trẻ thơ cứ chập chờn, chập chờn. Tôi cố kiềm mà hai mắt vẫn lờ đờ.

    Từ xa một bóng đen lọm khọm di tới giống  nhận như vừa đi vừa bò. Mẹ tôi đi tới nhận ra cha tôi, mẹ tôi la lên:

    - Trời ơi! Ông bị cái chi rứa?

    Tôi nghe giọng cha tôi yếu yếu như đã hụt hơi:

    - Mệt quá! Tôi mệt quá!

    Nói rồi ông ngã khuỵ xuống đất. Mẹ tôi la to hơn:

    - Cứu! Bà con ơi! Cứu!                       

     Nghe tiếng kêu, mấy chú nhà gần đó chạy tới. Họ vừa sợ vừa run và thở hỗn hển:

    - Cái chi rứa? Ai bị cai chi?

    Thấy cha tôi nằm sổng sược dưới đất. Mấy chú “ôi’’ lên một tiếng chạy đến bồng cha tôi về. Về đây người lấy nước, người tháo cái áo trong chân cha tôi ra. Tôi thấy máu trong chân của ông ứ lại thành một cục dẽo quánh. Sợ quá, tôi đứng ép sát vaò phênh khóc thút thít.Mấy chú lấy nước rửa vết thương, máu trong vết thương chảy ra đỏ một chậu. Rửa xong, họ lấy lá cây, thuốc lá giả nhỏ nhét vào vết thương rồi xé cái áo rách cột lại. Làm xong mọi việc,các chú hỏi:

    - Anh làm răng mà ra cái nôi nổi nầy?

    Bây giờ tôi mới nghe rõ giọng cha.

    - Rủi quá mấy chú ơi! Tôi chặc cây tre dề định sữa lại cái nhà. Cây tre vừa đứt bất thần nó phóng ngược lại phía sau một cái thật mạnh cắm dô giữa bàn chân rồi ghim luôn xuống đất Ác nhơn cái rựa dăng (văng) ra quá xa nhướng  mãi mà không tới. Tôi loay hoay một lúc mà chẵng làm chi được. Nghỉ một chút lấy sức, tôi dừng hai tay nâng cây tre lên nhưng cây tre nặng quá nâng không nỗi. Nó nhích lên được một chút lại tuột xuống. Cứ miết rứa nên vết thương mỗi lúc một to. Máu chảy ra đọng thành dủng đỏ lềnh. Lúc đó tôi nghe trong đầu chán ván đứng không vững, nó cứ quay cuồn muốn té. Tôi nói một mình: Không, ta không thể chết như thết nầy được. Bằng mọi giá ta phải sống. Ta còn dợ còn con nữa mà. Nếu ta chết thì dợ con ta  sống bằng cái chi.

    Nói đến đây ông lặng đi một chút, tiếp:

    - Các chú biết đó, cây tre nứa nó bén ngọt đến cở nào, khi nó cấm phặp dô giữa bàn chân, tôi nghe nó lạnh từ trong tim lạnh xuống tận mấy ngón…

    Mấy chú trợn mắt:

    - Ôi thôi thôi! Anh đừng nói nữa. Nghe anh nói bọn tôi rợn cả tóc gáy. Tôi chỉ muốn biết, anh làm răn mà lấy được cái chân ra thôi?

    Cha tôi liếm môi, đôi môi khô nưc nẻ. Tôi thấy trong người ông  tái nhợt không còn một chút máu. Ông nóí:      

    - May mà…                                                     

    Nói được hai tiếng, mặt ông trắng bạch rồi lặng luôn. Mấy chú thổ đùi đánh: “bẹt’’một cái cười, với nụ cười đau xót.

    - Trợi ơi! Đã đến nước nầy rồi mà còn may với rủi.

    Nói rồi, họ nhìn vào mặt cha tôi, lấy tay vạch mắt xem thử, ai cũng lắc đầu, chắp miệng khi thấy cha tôi lịm đi. Lúc nầy họ vừa thương cha tôi vừa lo cho gia đình tôi. Họ biết gia đình tôi chỉ dựa vào gánh củi của cha tôi kiếm được. Bây giờ cha tôi nằm đó, gia đình tôi sống bằng cái gì. Tất cả đều im lặng, im lặng trong đau buồn.

      Khi mọi người ra về, nhà tôi trở nên lạnh lẽo. Tôi nhìn ra ngoài, nhìn bầu trời xám xịt chẵng có gì ngoài gió. Cái gió đêm nay sao lạnh, lạnh con người lạnh cả ngôi nhà. Mẹ tôi bây giờ trở nên đờ đẫng. Xóm làng đã vắng bây giờ lại còn vắng hơn, buồn tẻ hơn. Mẹ tôi ngồi dưới đuôi giường của cha tôi chẵng nói lời nào, hai mắt chớp chớp. Đôi mắt khô lại càng khô. Tôi không biết nằm vào đâu, nằm trên giường sợ đụng chân cha nên nằm đại xuống đất cho qua đêm. Sáng ra tôi nghe cái gì đó cọm cọm trên người, thì ra đó là một tấm tranh mẹ tôi phủ lên cho đở lạnh.

      Từ đó cha tôi nằm liệt giường, bệnh càng ngày càng nặng, người ông khô khốc tong teo. Thỉnh thoảng ông rên lên những tiếng  rên nặng nề. Tôi thương cha nhưng chẵng biết làm gì, cứ cầm cái quạt, quạt lấy quạt để vào vết thương, nói:

    - Cha đau lắm hả?

    Cha tôi cười mà miệng như méo.

    - Cha không đau lắm đâu, hi…hi…

    Thấy miệng ông, tôi biết ông đau lắm mà không dám nói, nói ra sợ tôi buồn, bỡi ông thương tôi. Vì tôi là một đứa trẻ rách rưới, đói khổ. Lúc nầy ông cũng chẵng biết dựa vào ai, vì ai cũng chịu cảnh đói khát, bần cùng. Ai cũng là lá rách biết lấy gì đùm lá rách hơn.

    Cả nhà tôi bây giờ trông chờ vào mấy chú. Tuy mấy chú còn khó nhưng dẫu sao cũng cho được vài bữa ăn đở qua cơn ngặt nghèo.

    Chiều lại chú tôi bưng đến cho cha tôi một chén cơm, cơm nấu với sắn lát khô thơm lừng. Chú tôi về, cha tôi đưa chén cơm đến sát mặt tôi nói:

    - Ăn cơm đi con.

    Mùi cơm xông lên thơm ngào ngạt, ruột tôi cuộn lên từng hồi, từng hồi. Tôi bưng chén cơm ăn ngấu nghiến ,nhoáng một cái sạch nhẵn. Ăn xong, tôi thấy trong ngươi trong người khỏe khoắn rồi cười tũm tĩm đâu có biết cha nhịn đói để nhường cho con.

    Nhớ có một lần đói quá, cha tôi vừa gánh củi về, ông quẳng cho một nhánh dâu rừng. Tôi ăn không kiệp nhai nên chẵng biết chua ngọt. Lúc lâu sau ruột tôi cuộn lên, nước miếng trong cứ chảy ra rồi nôn mửa.Tôi nằm lệt giường mấy ngày. Sau nầy nói đến dâu rừng ruột tôi lại cuộn lên sợ hãi. Lần này ăn chén cơm của chú cho, tôi thấy ngon lắm. Tôi ngĩ: Đây là lần đều tiên mới ăn được bữa cơm ngon.

     Khi mẹ về tôi kể lại mọi chhuyện, bà nắm tay tôi kéo ra sau nhà trừng mắt:

     - Răn con ăn cơm của cha? Để cơm cho cha ăn, cha khỏe, cha đi làm kiếm cơm cho con ăn chớ.

     Tôi lặng thinh.

    Chiều hôm sau lại một chén cơm nũa chú tôi bưng tới. Cũng giọng nói ấy, khi chú tôi về, ông đưa chén cơm đến sát mặt tôi, nói:

       -Ăn đi con.

    Lần nầy tôi không đón lấy chén cơm mà lùi ra, mắt láo liên nhìn tứ phía. Biết mẹ tôi không có nhà nhưng vẫn sợ mẹ thấy, tôi lắc đầu. Cha tôi hiểu mọi chuyện mắt ông buông xuống:

    -Răn con không ăn, ai la con à?

     -Mẹ la.Tôi nói cộc lốc.

    Cha tôi đặt chén cơm xuống giường, mấy giọt nươc mắt rớt xuống chiếu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét