Ở đây nhà rộng lại có sào đất cách mạng
chia cho nên cuộc sống đở vất vã hơn. Nội giao cho tôi giữ dùm cho ông một con
trâu. Ông nói:
-Con trâu nầy là tài sản của ông đó. Con giữ
cẩn thận đừng bỏ đói nó nghe ?
Nghe
lời nội, hàng ngày tôi dắt trâu ra các gò mả chung quanh nhà cho ăn. Ăn mãi rồi
cỏ cũng hết. Dần dần, tôi cho trâu của mình nhập đàn cùng chúng bạn. Sáng nào
tôi cũng theo đàn trâu đi ngao du trên khắp cánh dồng. Từ đó tôi trở thành thằng
chăn trâu.
Những
bạn chăn trâu ở đây đứa nào cũng đã đi học. Không biết các bạn ấy học hành ra
sao nhưng mỗi khi nhảy lên lưng trâu bạn nào cũng đọc làu lảu những bài học thược
lòng mà chúng học được ở lớp nghe rất thích nhưng tôi đành chịu.
Trong số đó có một đứa to lớn: To cả người
và lớn cả tuổi. Đặc biệt nó có cặp mắt thật to. Lúc bình thường nó cũng như các
bạn khac. Khi giận ai nó trợn mắt lên một cái thấy toàn tròng trắng ai cũng kiếp.
Các bạn gọi nó là thằng mắt to và phong cho nó làm vua.
Từ ngày lên làm vua chăn trâu nó hí hửng lắm, nó nghĩ: đã là vua thì các bạn đứa
nào cũng phải phục tùng dù đúng hay sai.
Nhất là những đứa mới tới nhập bọn như tôi thì nó càng dè chừng. Lúc nào nó
nhìn tôi mắt nó cũng lườm lườm, nó đến trước mặt tôi lấy tay khỏa khỏa đất viết
lên mấy chữ ngoằn ngoèo rồi đứng lên cao giọng:
-Mầy
biết chữ gì đây không?
Nhìn
mấy nét ngoạch ngoạc dưới đất tôi chẵng biết chi bèn nói đại:
-Mi vẽ bậy chứ chữ chi rứa mà chữ?
Mắt
to vỗ đùi đánh “bét’’một cái cười khật khật gọi chúng bạn:
-Kìa bọn bay ơi! Lại đây mà coi thằng dốt nầy.
Mấy đứa nhỏ chạy tới dòm xuống đất, nó chẵng
biết chữ chi mà cũng nhảy cẩng lên vừa vỗ tay vừa la lớn:
-Ôi!
Dốt qua! Dót quá!
Nói
rồi chúng lại hỏi Mắt to:
-Mi viết cái chi rứa?
Mắt to giã vờ nói thầm:
-Tau viết nó b...ú…đ…í…t…mà nó không biết.
Nghe nó nói tức lắm, tôi lẫm bẫm: “Bọn bay
khinh tau hả ? Tau nói cho bọn bay biết: Ở xóm dưới các bạn của tau thương tau
lắm đó. Tau đau chân chúng nó cũng đến ngồi bên, tau không đi chơi chung nó
cũng không đi. Bọn bay nói tau dốt hả? Tau chưa đi học chứ tau đâu có dốt. Có bọn
bay dốt thì có…
Tức quá tôi nghĩ lung tung chẵng đâu vào
đâu. Thấy tôi ngồi thừ, chúng nó cười nói:
-Há…há…Dốt ơi là dốt.
Đã tức nó lại chọc tôi tức them, tôi đứng
lên đi thẳng về nhà nói với cha:
-Con muốn đi học.
Cha tôi nhìn tôi một cái rồi bỏ đi. Tôi biết,
chắc cha không cho đi học. Vì đi học lúc nầy cũng có tiền, nhưng cha là chi có
tiền mà đi, vì ông thầy Nhất dạy tư. Không ngờ không có tiền cha tôi cũng cho
tôi đi học. Cha tôi hứa với thầy Nhất mọi chuyện đồng áng để ông lo và mỗi năm
ông gánh cho thầy vài gánh phân để bù vào tiền học.
Chiều
về, ông đưa cho tôi một cuốn vở đen và cây bút chì, nói:
-Bút vở đó, mai con đi học đi. Học giỏi
nghe.
Tôi cầm cuốn vở mừng rớn. Thỉnh thoảng mở vở
ra ngửi, không hiểu sao cuốn vở đen ngày ấy thơm quá, ngửi mãi không thấy chán.
Sáng hôm sau đến lớp. Đây là lớp học của
xóm do thầy Nhất dạy. Lớp học chỉ có một ngôi nhà nhỏ, trong nhà kê mấy tấm ván
làm bàn. Học trò ngồi vào mấy cái đòn kê sát đất. Tôi chẵng biết ngồi vào đâu
bèn đứng dựa vào tường, đưa tay kéo cái lai áo lên vò lại thành một cục đuốt
vào miệng nhai chành chạch. Thầy chạy ra nhìn thấy, ông trợn mắt:
-Ôi chết!Mất vệ sinh quá.
Nghe nói mất vệ sinh tôi chẵng biết vệ sinh
là gì, nhưng nghe thầy la tôi đành bỏ áo xuống. Thầy đưa cho tôi một cái đòn và
chỉ tôi ngồi vào trong góc. Thầy bắt đầu phát vở chấm bài chính tả cho hoc
sinh. Một thằng nhỏ ngồi bên tôi, nó lật cái vở có cái điểm đỏ chói ra trước mặt.
Nó nhìn tôi rồi nhìn cuốn vở, nó muốn khoe với tôi là mình được điểm caomà
không dám nói nên nó cứ cười tũm tĩm. Tôi thấy cái chữ đỏ chạch mà không biết mấy
điểm không dám hỏi, hỏi ra sợ nó bảo mình dốt. Còn Mắt to nó xếp vở lại rồi lấy
tay chống lên ngồi lặng thinh. Tôi hỏi:
-Mi
được mấy điểm?
Mắt
to ngó tôi:
- Mi không biết chữ, có nói mi cũng không
biết hỏi làm chi.
Tôi nói lại:
-Tau chưa biết chữ nhưng mi nói bao nhiêu
điểm thì tau cũng biết chớ.
Tôi vừa nói
vậy, Mắt to trợn tôi một cái, hoãn quá tôi làm thinh. Lúc đó tôi cũng
không biết điểm nào giỏi, điểm nào dốt.
Giờ giải lao, thầy gọi tôi lên bảng phóng
cho ba chữ rồi bay đọc qua một lược. Đọc xong tôi thuộc ngay. Hôm sau dò bài,
thầy chỉ chữ nào tôi đọc ngay chữ ấy không sai. Khi thầy dùng hai tay đè hai mặt
chữ kia lại tôi lặng tinh. Tôi không biết cái chữ ấy nằm ở vị trí nào. Tôi nhẩm
mãi cũng chẵng ra. Thầy rút con roi nói:
-Học phải nhớ mặt chữ, không phải nói thụi
vậy đâu,hiểu chưa? “Trót trót, trót’’.
Tôi
nghe cái đít như bén máu mà không dám khóc. Sợ khóc lúc nầylà có cớ dể cho mắt
to chọc. Chiều thả trâu ra Mắt to đến bên tôi, nói:
Răn mi dốt hung rứa mi? Có ba chữ mà cũng
không thuộc.Thằng chi mấy đứa nói mi học bằng phân trâu nên dốt thì phải.
Tức quá tôi đứng vụt dậy, tay cầm con roi
thật dài giơ cao quá đầu, hai măt nhặm huơ vun vút. Cái đầu roi quất vào mấy
cái nón cời của bọn con gái nghe răng rắc. Chúng nó hốt hoãn chạ toán loạn. Mắt
to vốn lì lợ nó không chạy mà đứng lại. Hai tay chống nạnh, cái quần cộc của nó
tuột xuống tận đì để lộ cái rốn một cục đen sì, thách:
-Mầy
giỏi thì đánh tau đi, đánh đi.
Tôi nhắm hai mắt huơ tiếp, huơ mỗi lúc một
nhanh. Tiếng roi kêu vèo vèo nghe đáng sợ. Bỗng Mắt to kêu lên:
-Ôi! Chết tau rồi! Mi đánh đui mắt tau, tau
dề nói với cha tau giết mi luôn, giết luôn.
Hết hồn, tôi nhảy lên lưng trâu thúc nó chạy
như bay về nhà. Mấy đứa nhỏ cũng tan hàng, nhà nào về nhà nấy, cánh đồng trở nên vắng tanh.
Về nhà cũng sợ, tôi leo lên cây mít của nhà
ngoại sau vườn ngó chừ. Choạng tối, có một người di từ hướng Bờ Đắp về phái nhà
tôi, tôi lạnh cả gười. Tôi chạy ra chổ mả núp sau tấm bia. Nghĩ bụng: Nếu ổng
có phát hiện ra mình, mình cũng có đường thoát. Nghĩ vậy nên tôi nằm ép sát xuống
đất nín thở. Nhưng đâu phai, đó là người đi đường, tôi yên tâm về nhà.
Đêm
đó tôi ngủ cứ chợp chờn. Nghe một tiếng động nhỏ cũng run. Tôi đoán ông cha của
mắt to cũng hung lắm vì. Mắt to hung quá mà. Sáng thả trâu ra đứa nào cũng ngơ ngớ, chúng nó bây giờ
không biết đứa nào làm vua vì chiều hôm qua Mắt to đã thua tôi rồi. Tôi cũng ngồi
trên lưng trâu không dám xuống. Tôi đoán đằng nào ông ấy cũng đến đánh. Nếu ổng
đến tôi thúc trâu chạy thật nhanh ổng cũng chẵng làm gì được bỡi ổng già rồi mà.
Chờ mãi chẵng thấy gì, còn Mắt to tuy
chưa phục vẫn làm thinh. Tôi lên tiếng:
Chúng mình chơi đi bọn bay.
Mấy đứa nhỏ reo lên, tôi nói:
- Hôm nay mình cơi tro hát bội đi.
Đứa nào cũng hào hứng. Mắt to lấy lá cây cắm
vào đầy lưng quần làm tướng. Tôi lấy lá mít chằm cái mũ làm vua. Mấy đứa con
gái cột dây quanh người làm đào, kép…Mắt to bỗng dưng ớ lên:
-Như ta đây… là tướng của Bàu Sâu!Ta sẻ dẫn
tận Châu Phong, rồi ta sẻ…
Bõng dưng im bặt. Mấy dứa nhỏ chưng hững:
-Ô hay! Tướng của Bàu Sâu thì phải làm cái
chi chớ? Chẵng lẻ tướng của Bàu Sâu không không
rứa thôi à?
Mắt to nhìn láo liên:
-Mình chơi thôi mà.
-Thì mình chơi nhưng mi làm tướng thì mi phải
nói: Như ta đây là tướng của Bàu Sâu, tau sẽ dẫn quân lên tiêu diệt bọn bay.
Tau không để cho tụi bay ăn hiếp bọn tau miết rứa…Làm tướng thì mi phải nói cho
ra tướng chớ. Nói như rứa nó mới kinh, lần
sau chúng nó không dám đánh tụi mình nữa. Chứ mỗi lần nó dí tụi mình thì chúng
nó reo lên:Ha…ha…chúng ta là kẻ chiến thắng ,nghe mà phát ghét.
Nghe mấy đứa nhỏ nói tôi nghĩ cũng phải. Vì ở
làng tôi có chuyện xãy ra thế nầy:Trước đây, vào những năm ba mươi của thời
phong kiến. Ở giữa sông Thu Bồn có cồn đất bồi tốt lắm. Bên nầy là làng Châu
Phong, bên kia là Ái Nghĩa, hai bên giàng nhau dữ dội. Dân bên nầy làm thì bên
kia đánh. Hôm nọ, dân chúng hai bên kéo nhau ra giưa sông thách đấu. Họ tuyên bố:
Bên nao thắng thì mãnh đất ấy thuộc về bên đó. Khi đánh không những dánh ở giữa sông mà họ còn kéo nhau
vào tận trong làng. Lúc nầy không những đàn ông đánh với nhau ngay cả đàn bà và
trẻ nhỏ cũng đánh. Cuối cùng làng Châu Phong thắng.
Khi làng Châu Phong thắng ai cũng bảo: Không
thể ai thắng nỗi làng Châu Phong đâu vì ở đây có Lò Võ Hương Sơ mà.
Quả thật, lò võ Hương Sơ là Lò võ nỗi tiếng
khắp niềm ai nghe tiếng cũng sợ.
Từ thắng lợi đó mà bọn trẻ Châu Phong có
truyền thống thắng thua. Khi bọn trẻ Bàu
Sâu cho trâu qua đất Châu Phong thì bị ăn đòn. Bị đánh quá nên Mắt to xưng mình là vua đẻ dẫn quân đến thả
thù. Nhưng Mắt to chẵng nói được gì nên bọn nhỏ tức. Nhưng chúng nó đánh ai thì
đanh không dám dánh tôi. Vì ở đó có ông ngoại họ của tôi.
Mỗi
khi chúng nó dí đánh chúng tôi, Ngoại tôi
nhìn chúng nó một cái, chúng nó cúi rạp xuống: “ Dạ, thằng đó chúng cháu
không đánh đâu ạ”
Nghe bạn tre trách móc, Mắt to không biết
trả lời bèn nhìn tôi:
-Mi làm dua thì mi nói cái chi đi chớ?
Tôi cũng chẵng biết nói gì. Nhìn ra ngoài
thất trâu mình đói tóp hông tôi nói như hát:
-Thôi thôi tau không chơi nữa, trâu tau đói
lắm rồi. Tau phải đi nhổ cỏ cho trâu tau ăn cái đã.
Nói rồi tôi bỏ mũ đi vào đám sắn nhổ cỏ. Mấy
đứa nhỏ cũng chạy theo nhổ mỗi đứa một nắm đưa cho tôi:
-Cỏ đây mi cho trâu ăn rồi chơi.
Nhìn thấy nắm cỏ bằng nắm hương trên tay
chúng, tôi nói:
- Cỏ ít rứa trêu tau ăn chi no. Mai có nhổ
thì nhổ nhiều nhiều lêntrâu tau ăn no tau mới chơi.
Thế là chiều nào mấy đứa nhỏ cũng nhổ cho
tôi mỗi đứa một nắm cỏ thật to. Khi trâu về, mẹ tôi khen:
-Con của mẹ giỏi thật. Ngày nòa trâu cũng
no cành hông.
o o o
Trong những những ngày cuối tháng mười một
năm một một chín năm sáu trời mưa rả rích. Xóm làng chìm trong sợ hải lo âu.
Đêm đêm tiếng mõ tre kêu lốc cốc,lốc cốc từ La Tháp đến Châu Phong. Tiếng mõ đó
báo hiệu trong làng có cộng sản. Người nào không đánh mõ là kẻ che dấu cộng sản.
Không ngờ tiếng mõ ấy gây lòng tin cho dân. Nghe tiếng mõ, họ biết cộng sản còn
ở lại Miền Nam không phải đi tập kết là hết.
Tiếng mõ mỗi lúc cứ rộ lên từng hồi, từng hồi
như có ai đó đang rượt đổi một bóng ma đang ngự trị ở miếu hoang ngày đêm rình rập hù dọa đân làng. Sau tiếng mõ là
tiếng chân người chạy rầm rập, tiếng rên xiêt, la hét khiến cho đêm lạnh càng lạnh
hơn, rùng rợn hơn.
Cha tôi đứng bên cửa nhìn ra, người ông
nghe rờn rợn như có đềm xấu sắp xãy ra nhưng ông không biết điều gì. Chú tôi từ
xa đi tới, ông xềnh xoàn trong chiếc áo tơi, nói:
-Anh
ơi! Anh đã tính chuyện chưa?
Cha tôi ngơ ngát:
-Chuyện chi tôi có biết chi đâu?
Chú tôi vào nhà, hai tay vẫn còn run vì lạnh,
nói:
-Anh không biết thật ư?
-Ừ, Anh chỉ nghe người ta đánh mõ và chạy ầm
ầm.
Chú tôi cười:
-Rứa là anh hờ hửng với thời cuộc lắm rồi.
Hôm nay Mỹ đưa ông Ngô Đình Diệm dề làm tổng thống. Chính phủ quốc gia lên nắm
chính quyền. Các địa chủ đã quay dề làng. Dề lần nầy, họ sẻ trị những ai trong
hai năm qua đã xâm phạm đến đết đai, nhà cửa của họ. Người nào phá nhà, lấy cây
dề kê phản, đóng bàn ghế mà ông ta thấy được chỉ có chết. Còn tiếng mõ, tiếng
la hét lúc nãy là tiếng của anh em cán bộ, Đảng viên bị bắt vì không đi tập kết
được. Họ bắt được nhiều lắm. Những người nầy đang nhốt ở xã. Nghe đâu số người
nầy mấy ngày nữa, họ đưa dô Đập Vỉnh Trinh để thanh trừng. Kẻ nào chấp thuận
quy hàng cính phủ quốc gia thì được khoan hồng. Người nào chống đối dìm xuống
nước. Họ đã chuẩn bị mấy chục cái bao rồi đó.
Nghe chú nói, cha tôi rùng mình:
-Rứa thì làng mình chết ít nhất cũng vài ba
chục người. May thay nhà mình cũng đã thoát nạn.
-Ô hay!Thoát được cái nầy thì còn cái khác
nữa chứ. Anh quên rồi à? Hiện nay anh đang sống trên đất của ông Chánh kia mà. Nếu mai đây ông ta dề thấy anh ở trên đất của ổng,
ổng có để yên cho anh không? Còn mấy khuc cây anh mang dề thì ông ta cũng để yên cho anh chắc?
Nghe chú nhắc đến khúc cây, cha tôi mới nhớ
ra. Ngày đó nghe người ta bảo nhau: “Đi phá nhà của Chánh Bảy bà con ơi”. Cha
tôi cũng chạy tới nhưng người ta đã phá xong cả rồi. Ông nhặc đươc khúc đòn tay
mang về và đóng cho tôi cái bàn nhỏ để học. Bây giờ phải hủy cái vết tích ấy kẻo
chết. Ông sai tôi mang đi vứt xuống hồ.
Tôi cầm cái bàn đi mà tiếc không muổn bỏ. Tôi đập cái bàn lấy bốn cái chân đem
về cất.
Đêm đó cha tôi dời nhà. Dời nhà ban đêm là
chuyện xưa nay hiếm. Nếu không dời thì không được. Bởi mãnh đết đó nằm trước mả Bà Thị mẹ của ông
Chánh Bảy. Khi còn quản lý, ông Chánh không cho ai làm nhà hoặc làm chuồn trâu,
bò trên đó. Bây giờ cha tôi làm nhà là chuyện không thể.
Khi mặt trời tắt, cha và chú tôi leo lên
nóc nhà, nhà thì yếu mà có đến hai người ngồi nên nó cứ đong đưa, đong đưa. Mấy
cây cột tre có lúc tưởng chừng như trốc gốc. Chú tôi vừa làn vừa vừa nhìn chổ
trông có gì thì nhảy. Dở xong, người cỏng tranh, người vát tre đi beng qua cánh
đồng rộng chừng hai cây số đến gò ông Thành dựng nhà mới.
Gò ông Thành là gò đât hoan không người quản
lý. Bởi đó là gò sỏi đá không cỏ cây cỏ mọc. Dựng nhà xong, cha tôi quay về nền
nhà củ quét đọn, cuốc đất. Làm xong cũng không xóa sạch đấu vất. Cha tôi bèn
vun lên từng hàng đất để trồng sắn. Biết rằng trồng sắn vào lúc nầy là trái vụ
nhưng vẫn làm. Khi cuốc đất, cha tôi thấy bốn cái chân bàn tôi giấu ở đó, ông cầm
lên trợn mắt:
- Trời ơi! Con với cái, có chết không chớ.
Không ngờ, ông Chánh Bảy đến đứng đó từ từ
bao giờ chẵng hay. Ông Chánh cúi xuống
dòm:
- Cái chi đó?
Cha tôi luống cuống:
- Dạ thưa! Dạ thưa…
Ông Chánh nhìn vào mặt cha tôi vẻ nghi nghờ:
- Loại gỗ liêm này là của ai? Tại sao nó lại
ở dây? Ai làm chi trên mãnh…
Ngoại tôi cũng vời đi tới, cắt ngang:
-Xin chào anh! Anh đến bất ngờ qua,tôi
không hay.
Ông Chánh quay sang ngoại tôi:
-Trong những năm tôi đi vắng ai làm gì trên
mãnh đất nầy?
Ngoại tôi biết rõ mọi chuyện, vẫn nói
tránh:
-Thưa anh! Từ ngày anh đi mãnh đất vẫn bỏ
hoang. Nay nghe tin anh dề, tôi cho con quét dọn sạch sẽ một chút để anh khỏi
phạt lòng.
Nghe qua ông Chánh làm thinh. Ông cứ gõ
cái đầugậy Paton xuống đất nge trột tột. Với cốt cách của ông, những tá điền ai
cũng biết. Dù chuyện đúng chuyện sai, ông cũng từ từ không nóng vội. Khi ông ta
nói là ông ta làm, làm không khoan nhượng. Dẫu người đó có nghèo đoi đến mất chăng
nữa ông ta đuổi không cho làm tá điền cũng chịu. Người ta hay bảo nhau: “Địa chủ mà…”
Không hiểu sao lần nầy ngoại tôi nói đúng
hay sai ông ta cũng không hạch tội. Có lẻ ông ta muốn ngoại tôi làm một anh tá
điền trung thành cho ông ta một lần nữa.
Trước đây ông Chánh đào một cái hồ to trồng
hoa sen trước mả Bà Thị vừa làm cho đẹp mả vừa lấy hạt. Cái hồ đó ông ta giao
cho ngọai tôi trông coi. Để trả công cho ngoại tôi, ông Chánh cho ngoại tôi mượn
một sào đất (sào Trung bộ) làm ăn không phải đóng thuế. Lần nầy trở về, ông
Chánh tin tưởng vào chính phủ quốc gia. Ông ta cho đó là chổ dựa vững chắc
trong việc quản lý ruộng đất của mình. Lần nầy ông định sữa lại cái hồ và tiếp
tục giao cho ngoại tôi trông coi nên ngoại tôi nói dù đúng sai ông ta không tri
cứu. Ngay cả chuyện ngoại tôi tham gia với dân làng đập phá nhà của ông ta lấy
cây về làm việc riêng mà ông ta chỉ nói qua loa.
Lúc ông Chánh vào nhà của ngoại tôi, ông ta
thấy hai khúc cây kê dưới chồng nong.Nói:
-Nhà anh ở trên gò mà cá cũng chui vào nhà được.
Ngoại tôi ngơ ngát:
Thưa anh! Làm chi có chuyện đó.
Ông Chánh cười khần khật:
-Ha …há…sao lại không? Cá chui dô còn để lại
hai cái đuôi ở dưới chồng nong của anh kia kìa.
Ngoại tôi nhìn xuống thấy hai khúc đòn tay bằng
gỗ liêm lòi hai cái ngòm đuôi cá ra ngoài mà mất cả hồn, ngoại tôi lúng túng:
-Thưa anh! Thưa…
Ông Chánh xả lả:
-Thôi thôi, chuyện nầy tôi biết. Ở đây
không phải chỉ mình anh mà cả làng nầy ai cũng phá nhà tôi lấy cây về đóng bàn
ghế kia mà…Nhưng thôi ta không nói chuyện ấy nữa.
Nói rồi ông quay vào nhà nói với ngoại tôi:
-Con rể của anh cũng chẵng kém chi người
ta. Anh tưởng tôi không biết sao? Mới ngày hôm qua nó còn ở đây mà. Vậy mộ
trong một đêm nó lại có nhà mới rồi, hay thiệt. Bây gời con anh ở đâu? Ở gò đá
hay gò Cây Cốc?
-Dạ, nó ở gò đá mà người ta gọi là gò Ông
Thành.
-Vậy là tốt rồi.
-Tốt gì anh,ở hàng ngày than củi cũng không
đủ sống qua ngày…
Từ khi về gò ông Thành, cha tôi không còn đất
để sản xuất. Sào đất cách mạng cấp cho ông Chánh đã lấy lại. Cha tôi lại tiếp tục
vào rừng than, củi. Hôm nọ đã khuya cha tôi vẫn chưa về. Mẹ tôi thấp thõm, nói:
-Cha con là số khổ, làm bất cứ việc chi
cũng không được song toàn, lúc hổ rượt,khi què chân. Hôm nay không biết có chuyện
chi mà dến chừ cũng chưa thấy dề?
Tôi lo lắng vẫn an ủi mẹ:
- Chắc không có chuyện chi đâu mẹ. Có lẽ
cha mang củi xướng Bảo an bán luôn cũng nên.
Mẹ tôi nói:
-Làm chi có chuyện đó. Xưa nay có khi nào ổng
làm chuyện đó bao giờ.
Hai mẹ con ngồi bàn tính, cha tôi về. Tôi
giật mình khi nhìn thấy trên người ông không còn một mãnh vải. Mẹ tôi nhin sững:
-Trời ơi! Ông lam cái chi chi rứa?
Cha tôi đặt gánh than xuống bực bội chưởi:
-Mẹ kiếp cái số của tôi! Tôi vừa gánh đôi
giỏ than ra giữa đồng trống thì gió thổi mạnh. Lửa còn âm ỉ bỗng bùng cháy. Tôi
dập mãi vẫn không tắt. Lúc đầu lấy cái áo, sau lấy cả cái quần để dập. Khi lửa
tắt cả áo lẫn quần cháy sạch. Như rứa thì còn làm chi đươc nữa. Tôi đành ở lại
chờ tối…chẵng lẽ dề ban ngày? Nếu dề ban ngày mà người ta thấy được có họa họ
cười cho mà thúi đầu.
Nghe cha nói tôi
thương lắm. Tôi muốn nghỉ học để phụ giúp gia đình. Nhưng cái tuổi của tôi ngày
ấy chẵng việc chi làm ngoài chuyện đi ở đợ, mà ở đợ mẹ tôi không muốn, bà bảo:
-Có đói thì cả nhà cùng chết chứ không đi
đâu hết. Mẹ sơ cái chuyện đi ở cho nhà giàu lắm. Mẹ cũng có người cùng tuổi với
mẹ ,vì quá đông anh em nên chị ta phải đi ở chăn trâu cho nhà Chánh Tổng. khi
lên mười lăm tưởi thì bị ông chủ cướp. Biết mình có bầu chị ta trốn nhà đi biệt
để sinh con. Từ đó chị ta lủi thủi một mình chẵng ai ngó ngàn tới…Con gái là rứa,
còn con trai cũng chẵng thua kém chi. Họ không bao giờ cho thằng ở vào nhà. Tới
bữa ăn, ăn cơm thừa và ngủ ở cổng chuồng trâu. Còn chuyện làm thì khỏi phải
nói, họ bắt làm quần quật cả ngày lẫn đêm, làm cho lại đồng tiền, bát gạo của họ
bỏ ra mà…
Ông bà ta ngày xưa tuy nghèo nhưng họ cũng
coi trọng phẩm giá của người phụ nử lắm. Người nào bị hoàn cảnh ép buộc thì
cũng có thể tha thứ. Còn người nào xèn bậy mà họ biết được thì họ rất kinh khi.
Họ cho đó là thứ đàn bà ghẻ lở, ghê tởm dẫu kẻ đó là con của quan quyền hay
giàu sang…
Nghe mẹ nói tôi sợ nên cũng chẵng muốn đi ở
cho người ta chút nào. Hơn nửa, cha tôi bảo: “Chuyện làm lụng là của cha, con cứ
lo chuyện học hành. Có học biết đâu sau nầy sướng cũng nên”.
Nói là vậy, khi vào học lớp ba trường xã học
ngày hai buổi tôi đành phải nghỉ học ở nhà chăn trâu. Không được đi học tôi tiếc
lắm. Chiều nào tôi cũng cột trâu ở bụi tre đến lớp nghe thầy dạy. Thấy vậy, thầy
Nhất bảo:
-Con muốn học, tối mang vở đến nhà, thầy
bày cho.
Nghe thầy nói tôi mừng, cha mẹ tôi cũng
vui.
Thầy Nhất là người cùng làng và cũng là người
bà con trong họ. Thầy muốn dạy tôi là để tra công cho cha tôi lo việc đồng áng
cho thầy. Từ đó đêm nào tôi cũng đi học.
Đường đi từ nhà tôi đến nhà thầy xa và phải
qua một cái vườn hoan. Cái vườn đó không có người ở chỉ trồng toàn tre. Người
ta bảo cái vườn ấy linh lắm. Trong vườn chỉ toàn là ma. Họ bảo: Đêm đêm có lúc
nghe tiếng người khóc, có khi nghe tiếng trẻ con cười rật rật. Nhất là những đêm
trời mưa gió ai đi ngang qua cũng nghe tiêng sột soạt trong tre. Nhiều khi tiếng
sột soạt ấy ở ngay dưới chân mình mà nhìn chả thấy người. Nghe họ nói tôi cũng
sợ lắm nên nỗi lân ngang qua tôi nghe lạnh cả ngươi, không đi không được học.
Không khéo Mắt to lại bảo mình là thằng dốt nên tôi cứ liều. Mỗi lần đi mẹ tôi lại
quặt cho tôi một miếng lọ, nói:
-Con đi mà thấy sợ, con đứng yên và nhắm mắt
lại vái lẫm bẫm: “Trăm lại ngài! Con là đưa trẻ, con không làm chi hại ai. Các
ngài tránh đường cho con đi.”
Lúc đầu đi ngang quá tôi cũng sợ, đi mãi cũng
thành quen. Có những đêm mưa gió quần ướt áo đẩm, ngồi học cứ run cập cập. Khi
thấy tôi lạnh run thầy bảo: “Nếu có lạnh quá thì con khỏi đi học. Lúc nào tạnh
ráo con hẵn đi” Về sau nếu gặp mưa tôi cởi áo ra quấn lên đầu đội nón lại nên
suốt cả mùa mưa mà quần áo tôi vẫn khô.
Một hôm đi học về vừa tới vườn hoang ,trời
nổi gió sắp mưa to, cái nón đang đội trên đầu bỗng bay vù ra khỏi đầu. Tôi chạy
theo lượm. Vừa chạm vào thì cái nón lại bay tiếp. Và cứ thế tôi phải chạy một
đoạn mới lấy được. Khi nhìn vào bụi tre, tôi thấy một cục thật to và đen thù lù
cứ nhúc nhích nhúc nhích. Tôi nghĩ đó là ma nên lạnh toát cả người. Nhớ lời mẹ
dặn, Tôi đứng im và nhắm mắt lại vái nhưng quên mất lời vái nên nói lưng tung:”
Trăm lạy ông thần ma! Tôi là một đứa tre, tôi đi hoc chứ chẵng làm hại chi ai. À
mà không…vừa rôi tôi có đánh vào mắt của thằng Mắt to nhưng tôi không cố ý. Nó
tự xông dô ấy chứ. Trăm lạy ông ma tánh đường cho tôi…
Khi mở mắt ra thì cái cục đen thù lù ấy vẫn
đứng nguyên, tôi chạy ù ra đường. Đi được một đoạn, có một người đi xăm xăm tới,
tôi cũng cho đó là con ma nhỏ. Tôi né vào lề đường, nhắm mắt lại vái lâm râm. Người
đó đi đến rồi dòm sát vào mặt tôi. Tôi hốt hoản hét lên một tiếng thất thanh
khiến cho người đó gật mình lùi ra:
-Ụa! Cháu làm chi ở đây?
Tôi từ từ mở mắt thì ra đó là ông Thành
-Kìa ông! Cháu cứ tưởng là ma.
Ông Thành cười:
-Ma cỏ chi ở đây. Cháu đi hoc dề đó ha?
Cháu có thất con trâu của ông không? Con trâu của ông nó tuột thẹo đi từ hồi tối đến chừ ông tìm
không thấy.
Tôi nhớ lại cái cục đen thùi lù lúc nãy, nói:
Trâu thì con không thấy, con chỉ thấy cái
chi đen thù lù to như con trâu đang ở chổ bụi tre. Ông Thành tới, nói:
-Ừ đúng rồi, con trâu của ông ở đây rồi, rứa
mà từ tối đến chừ ông mới tìm được. Cảm ơn cháu.
Tôi thở ra một tiếng: “Rứa mà mình cứ tưởng
đó là con ma to”.
Về nhà tôi thấy cha tôi ngồi trên giường
hút thuốc không nói gì:
-Cha chưa ngủ ngồi đợi con?
-Ừ.
Tôi
nghĩ: Hôm nay có chuyện chi mà cha ngồi chờ. Hay là ông không muốn cho mình đi
học nửa?Tôi lên giường nằm. Mẹ tôi nói:
-Ông muốn nói chi thì nói với con đi.
Cha tôi thở ra một tiếng:
Hôm nay con không đi học đêm nửa, ngày mai con
dến trường học tiếp, chuyện trâu bò để đó cha lo. Nhưng con đừng nói với nội làm chi. Nội con nghe
nói con đi học bỏ trâu đói ổng lo lắm.
Được đến trường học tiếp tôi mừng lắm. Chiều
lại sau giờ học tôi cho trâu ăn đến tận khuya mới về.
Tuy học cùng lớp nhưng hoc hành thua kém
chúng bạn. Chữ viết thì nghoạch ngoạc không thẳng hàng. Có một lần thầy cho lên
bảng viết câu: “Tiên học lể,hậu học văn”. Các bạn viết tuy chữ lên, chữ xuống
nhưng ngó cũng được. Đến lược tôi, tôi viết được chữ đầu còn mấy chữ sau tôi
nhón cả hai chân mà viết cũng không tới. Mắt to bật cười rần rật kêu lên:
-Nầy bạn bay! Coi thằng dốt nó lấy nạn chống
trời.
Cả lớp nhìn lên đứa nào cũng cười tít mắt.
Có một đứa nói:
-Bữa ni trời có sập bọn mình cũng không
chêt đã có người chống rồi.
Khi
tôi nhìn lên quả thật không sai.Hàng chữ chổng ngược lên chẵng giống ai. Thấy vậy
thầy cũng chẵng quở trách, vì thầy biết hoàn cảnh cảnh của tôi.
Viết không được các bạn cười tôi xấu hổ. Về
nhà tôi tập viết. Tôi lấy cái nia úp xuống đất làm bảng, lấy lát sắn khô làn phấn.
Tôi viết liền mấy buổi, chữ của tôi đã thẳng hàng. Lần sau lên bảng, tôi viết một
câu dài từ đầu bảng đến cuối bảng thẳng tắp. Thầy gật gật đầu và gõ thướt lên bảng
nghe “trót trót” nói:
- Các em nhìn đây,viết phả thẳng như thế nầy
mới được. Lần sau nếu em nào viết không thẳng thì phải chịu ba roi nghe chưa?
Cả lớp dạ một tiếng nghe yếu nhách.
Nghe thầy khen tôi cười, tuy không nói ra
nhưng trong lòng sướng lăm.
Khi học đến bài “chó săn”, thầy viết lên bảng
mấy chữ: “…khi chay lên tới đỉnh đồi thì…”,thầy khoanh chữ đỉnh lại. Hỏi:
- Em nào biết đỉnh là cái gì không?
Nói đến đỉnh tôi nghĩ ngay đến cái Bầu. Vì ở
nhà mẹ tôi gọi cái vật đan bằng tre có nắp đậy để đựng đồ hoặc làm đôi gánh gọi
là đôi Bầu. Tôi đưa tay lên gải gải đầu,nói:
-Thưa thầy! Cái đỉnh là cái bầu ạ.
Thây khen:
- Giỏi! Cái đỉnh chính là cái đầu. Cho em
mười điểm.
Mắt to đứng lên:
- Thưa thầy! Bạn ấy nói cái bầu chứ không
phải cái đầu ạ.
Tầy quay xuống.
- Hả? Em nói cái bầu hay cái đầu.
Biết mình nói sai mà không nhận.
- Dạ, em nói cái đầu.
Mắt to kiên quyết:
-Thưa thầy! Bạn ấy nói cái bầu chúng em ai
cũng nghe thấy.
Thầy phân vân, nói:
-Thầy thấy em ấy lúc trả lời chỉ tay vào đầu.
Thôi được, thầy cho em mười điểm trừ. (Ngày xưa có điểm cọng và điểm trừ).
Mặt to không đồng ý với điểm thầy cho nhưng
vì thầy nên nó làm thinh. Khi ra về, Mắt to đi sát lại bên tôi lấy tay gãi gãi
đầu, nói:
-Không biết tại
răn cai bầu của tau hôm nay ngứa quá. Răn nó không ngứa chỗ mô mà lại ngứa cái
bầu?
Nghe chọc tôi cười
thầm: “ Bọn bay nói chi thì nói, tau cũng có mười điểm trừ rồi”.
Học xong kỳ một lớp ba, tôi đươc đánh gái
là học sinh khá, nên trong những ngày hè tôi chỉ lo chuyện chăn trâu. Tối nào
tôi cũng cỏng em xuống nội ăn cơm. Tối hôm đó trời mưa rây rây, tôi vừa ngồi
vào mâm thì có tiếng gọi ngoài sân. Nội tôi bước ra tươi cười chào:
- Chào chú! Mời chú vào nhà. Không biết hôm
nay có chuyện chi mà xã đến tận đây?
Ông văn thư vào nhà trịnh trọng rút từ
trong túi ra một cái bọc để lên bàn. Nói:
-Thưa bác! Cháu nội bác đi học…
Vừa nghe “ Cháu nội bác đi học”, tôi bồng
xốc đứa em chui qua cửa sau chạy như bay về nhà. Đường qua ruộng lúa ngõ ông
Trùm hẹp ,té mương mấy lần. Con bé sợ quá khóc ré.Tôi giỗ:
-Đừng khóc, đừng khóc! Không có chi đâu. Em
cứ bu kỷ dô cổ anh là được.
Tôi
vừa chạy vừa có cảm giác như nội tôi đan đuổi theo sau đánh tớt tấp. Vừa đánh vừa
la: “Đi học nầy! Đi học nầy! Bỏ trâu đói nầy! Bỏ trâu đói nầy…”
Về nhà tôi phóng lên giường ngủ ngay. Nghĩ
bụng: Sáng mai mình thả trâu đi thật sớm, nội có đến đánh cũng chẵng có mình
đâu mà đánh. Nằm một lúc muốn ngủ lắm nhưng không sao ngủ được. Con bé cứ khóc
lè nhè đòi ăn. Mẹ tôi hỏi:
-Con cho em ăn no chưa, răn nó đòi ăn miết
rứa?
Tôi bực bội:
-Mẹ kiếm cái chi cho nó ăn đi. Chắt lúc nãy
nó ăn chưa no.
Mẹ gườm tôi:
- Con nói răn hay rứa, nếu ở nhà có cơm thì
làm chi phải xuống nội?
Tôi thấy con bé đói cũng phải, tôi đây cũng
rát cả ruột huấn chi nó. Cả đêm bụng cứ cồn cào, ngủ lúc tỉnh, lúc mê. Mờ sáng
tôi dậy mở trâu đi. Vừa ló mặt ra chú tôi đã đứng đó từ bao giờ. Tôi chào chú rồi
nhảy lên lưng trâu. Chú tôi gọi:
- Dây chú bỉu:
Tôi quay lại chân tay run, tôi nghĩ: Nội đánh cũng có thể chịu được vì ông đã già rồi.
Còn chú đánh chỉ có chết. Chú tôi lấy mấy
cuốn vở và cây bút bỏ lên giường. Nhìn thấy mấy thứ đó tôi càng run hơn. Vì đây
là bằng chứng bỏ trâu đói đi học không thể chối cải.
Từ tối hôm qua đến giờ tôi tìm mọi cách để
tránh đòn nhưng tránh cũng không được. Bây giờ tôi đổ liều: đánh mấy thì đánh,
đánh chết thôi không tránh nữa.
Đang suy nghĩ, chú nói với cha tôi:
-Mình tệ quá anh ơi!
Bỗng chú tôi lặng đi một lúc như tự trách
mình. Một lát sau chú nói:
-Đúng là cái khó bó cái khôn. chi nhà mình khá giả, con cháu mình đến trường
đến lớp học hành đàn hoàn thì hay biết mấy…
Chú cầm mấy cuốn vở và tờ giấy khen giơ lên
nói:
-Đây là tặng phẩm của xã, tặng cho những
hoc sinh giỏi của xã trong năm.
Chú tôi vừa dứt lời, tôi thở ra cái ào. Có lẻ
đây là lần đầu tiên tôi mới thở kiểu ấy. Chú tôi về, mẹ tôi cầm tờ giấy khen
lên ngắm nghía tứ bề, nói:
-Con
đi học, họ cho con tờ giấy đẹp quá.